Trích dẫn theo Dược sĩ, Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Phương Khanh – Khoa Dược – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park:
Kháng sinh không phải là loại thuốc có thể sử dụng tùy tiện được, cần phải dùng đúng bệnh, đúng liều lượng, đúng thời gian và có sự hướng dẫn của bác sĩ/dược sĩ. Kháng sinh chỉ điều trị nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn mà không phải là virus.
1. Thuốc kháng sinh là gì?
-
- Thuốc kháng sinh là một loại thuốc dùng để điều trị nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn mà không phải là virus.
- Thuốc kháng sinh được sử dụng để điều trị hoặc ngăn ngừa một số loại nhiễm trùng do vi khuẩn. Kháng sinh hoạt động bằng cách tiêu diệt vi khuẩn hoặc ngăn chúng lây lan, nhưng phải có tác dụng cho tất cả các loại vi khuẩn.
- Một số kháng sinh có tác dụng trên nhiều chủng vi khuẩn được gọi là kháng sinh phổ rộng.
- Một số loại khác tác dụng trên một số chủng vi khuẩn nhất định được gọi là phổ hẹp.
Thuốc kháng sinh không có tác dụng đối với các bệnh nhiễm trùng do vi rút (virus) như cảm lạnh và cúm, và hầu hết các trường hợp ho và viêm họng.
=> Vì vậy nếu bạn bị cảm lạnh, cảm cúm, ho hay viêm họng, viêm phế, kháng sinh sẽ không có tác dụng điều trị.
Kháng sinh không thể sử dụng tùy tiện, mà cần phải sử dụng đúng bệnh và đúng liều lượng, đặc biệt phải có sự hướng dẫn của các bác sĩ.
=> Xem thêm bài viết điều trị ho, viêm phế quản không sử dụng kháng sinh: <xem tại đây>
2. Tác dụng của thuốc kháng sinh
Sau khi vào tế bào, kháng sinh được đưa tới đích tác động là các thành phần cấu tạo cơ bản của tế bào vi khuẩn và phát huy tác dụng: kìm hãm sự sinh trưởng và phát triển hoặc tiêu diệt vi khuẩn, đặc biệt có hiệu quả ở các vi khuẩn đang sinh trưởng và phát triển mạnh, bằng cách:
-
- Ức chế sinh tổng hợp vách tế bào vi khuẩn: các kháng sinh nhóm beta-lactam, fosfomycin và vancomycin ngăn cản sinh tổng hợp lớp peptidoglycan nên không tạo được khung murein – tức là vách không được hình thành. Tế bào con sinh ra không có vách, vừa không sinh sản được vừa dễ bị tiêu diệt hoặc bị li giải, đặc biệt ở vi khuẩn Gram-dương.
Như vậy, những kháng sinh này có tác dụng diệt khuẩn nhưng chỉ với những tế bào đang phát triển (degenerative bactericide). - Gây rối loạn chức năng màng bào tương: chức năng đặc biệt quan trọng của màng bào tương là thẩm thấu chọn lọc; khi bị rối loạn các thành phần (ion) bên trong tế bào bị thoát ra ngoài và nước từ bên ngoài ào ạt vào trong, dẫn tới chết, ví dụ polymyxin B, colistin. Với cơ chế tác động này, polymyxin có tác dụng diệt khuẩn tuyệt đối (absolute bactericide), tức là giết cả tế bào đang nhân lên và cả tế bào ở trạng thái nghỉ – không nhân lên.
- Ức chế sinh tổng hợp protein: tham gia sinh tổng hợp protein ngoài ribosom còn có các ARN thông tin và các ARN vận chuyển. Điểm tác động là ribosome 70S của vi khuẩn: tại tiểu phần 30S ví dụ như aminoglycosid (nơi ARN thông tin trượt qua), tetracycline (nơi ARN vận chuyển mang axit amin tới) hoặc tại tiểu phần 50S (nơi acid amin liên kết tạo polypeptide) như erythromycin, chloramphenicol, clindamycin. Kết quả là các phân tử protein không được hình thành hoặc được tổng hợp nhưng không có hoạt tính sinh học làm ngưng trệ quá trình sinh trưởng và phát triển.
- Ức chế sinh tổng hợp acid nucleic: gồm ba cấp độ: (1)Ngăn cản sự sao chép của ADN mẹ tạo ADN con, ví dụ do kháng sinh gắn vào enzym gyrase làm ADN không mở được vòng xoắn, như nhóm quinolon. (2)Ngăn cản sinh tổng hợp ARN, ví dụ do gắn vào enzym ARN-polymerase như rifampicin. (3)Ức chế sinh tổng hợp các chất chuyển hóa cần thiết cho tế bào: quá trình sinh tổng hợp acid folic – coenzyme cần cho quá trình tổng hợp các purin và pyrimidin (và một số acid amin) bị ngăn cản bởi sulfamid và trimethoprim.
- Ức chế sinh tổng hợp vách tế bào vi khuẩn: các kháng sinh nhóm beta-lactam, fosfomycin và vancomycin ngăn cản sinh tổng hợp lớp peptidoglycan nên không tạo được khung murein – tức là vách không được hình thành. Tế bào con sinh ra không có vách, vừa không sinh sản được vừa dễ bị tiêu diệt hoặc bị li giải, đặc biệt ở vi khuẩn Gram-dương.
Mỗi kháng sinh chỉ tác động lên một vị trí nhất định trong thành phần cấu tạo, ảnh hưởng đến một khâu nhất định trong các phản ứng sinh học khác nhau của tế bào vi khuẩn, dẫn đến ngừng trệ sinh trưởng và phát triển của tế bào của vi khuẩn.
Nếu vi khuẩn không bị ly giải hoặc không bị nắm bắt (thực bào) và tiêu diệt, thì khi không còn tác động của kháng sinh (khi bạn ngừng thuốc kháng sinh), vi khuẩn sẽ có thể hồi phục/ sống trở lại (reversible).
Chỉ cần 1 tế bào sống sót, với tốc độ sinh sản nhanh chóng, sau vài giờ số lượng tế bào vi khuẩn đã không thể đếm được (ví dụ E. coli nếu 20 phút sinh trưởng 1 lứa thì sau 5 giờ: từ 1 tế bào mẹ – ban đầu phát triển thành 215 tế bào và sau 10 giờ là 2 30 – hơn 1 tỷ); sẽ nguy hiểm hơn nữa nếu tế bào sống sót đó đề kháng kháng sinh.
3. Các loại kháng sinh và ứng dụng điều trị bệnh
Có hàng trăm loại kháng sinh khác nhau, nhưng hầu hết chúng có thể được phân thành 6 nhóm.
-
- Penicillin (như penicillin, amoxicillin , co-amoxiclav , flucloxacillin và phenoxymethylpenicillin):
Được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiều loại nhiễm trùng, bao gồm nhiễm trùng da, nhiễm trùng ngực và nhiễm trùng đường tiết niệu
- Cephalosporin (chẳng hạn như cefalexin ):
Được sử dụng để điều trị một loạt các bệnh nhiễm trùng, nhưng một số cũng có hiệu quả để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như nhiễm trùng huyết, viêm màng não, viêm màng trong tim, bệnh lậu, bệnh thương hàn,…
- Aminoglycoside (chẳng hạn như gentamicin và tobramycin)
Có xu hướng chỉ được sử dụng trong bệnh viện để điều trị các bệnh rất nghiêm trọng như nhiễm trùng huyết, vì chúng có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm mất thính giác và tổn thương thận.
Chúng thường được tiêm bằng đường tiêm, nhưng có thể được dùng dưới dạng thuốc nhỏ cho một số bệnh nhiễm trùng tai hoặc mắt
- Tetracycline (chẳng hạn như tetracycline, doxycycline và lymecycline )
Có thể được sử dụng để điều trị một loạt các bệnh nhiễm trùng, nhưng thường được sử dụng để điều trị mụn trứng cá và một tình trạng da được gọi là bệnh rosacea
- Macrolide (chẳng hạn như azithromycin , erythromycin và clarithromycin )
Có thể đặc biệt hữu ích để điều trị nhiễm trùng phổi và ngực, hoặc thay thế cho những người bị dị ứng với penicillin hoặc để điều trị các chủng vi khuẩn kháng penicillin
- Fluoroquinolon (như ciprofloxacin và levofloxacin)
Đây là những loại kháng sinh phổ rộng từng được sử dụng để điều trị một loạt các bệnh nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng đường hô hấp và đường tiết niệu. Những loại thuốc kháng sinh này không còn được sử dụng thường xuyên vì nguy cơ tác dụng phụ nghiêm trọng.
- Các loại kháng sinh khác bao gồm chloramphenicol (dùng cho bệnh nhiễm trùng mắt và tai), axit fusidic (dùng cho bệnh nhiễm trùng da và mắt), nitrofurantoin và trimethoprim (dùng cho bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu).
- Penicillin (như penicillin, amoxicillin , co-amoxiclav , flucloxacillin và phenoxymethylpenicillin):
4. Khi nào nên sử dụng kháng sinh?
Chỉ nên uống thuốc kháng sinh theo chỉ dẫn trên bao bì hoặc tờ thông tin bệnh nhân đi kèm với thuốc, hoặc theo hướng dẫn của bác sĩ hoặc dược sĩ.
Thuốc kháng sinh có thể được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn.
Thuốc kháng sinh có thể là:
-
-
- viên nén, viên nang hoặc chất lỏng mà bạn uống – chúng có thể được sử dụng để điều trị hầu hết các loại nhiễm trùng nhẹ đến trung bình trong cơ thể
- kem, thuốc bôi, thuốc xịt và thuốc nhỏ – chúng thường được sử dụng để điều trị nhiễm trùng da và nhiễm trùng mắt hoặc tai
- thuốc tiêm – chúng có thể được tiêm dưới dạng tiêm hoặc nhỏ giọt trực tiếp vào máu hoặc cơ và được sử dụng cho các trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng hơn
-
5. Sử dụng dư hoặc thiếu kháng sinh có gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng không?
– Nếu uống thiếu liều kháng sinh
Nếu bạn quên uống một liều thuốc kháng sinh của mình, hãy dùng liều đó ngay khi bạn nhớ ra và sau đó tiếp tục dùng thuốc kháng sinh như bình thường.
Nhưng nếu gần đến lúc dùng liều tiếp theo, hãy bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch dùng thuốc thông thường của bạn. Đừng dùng liều gấp đôi để bù cho liều đã quên.
– Nếu uống dư liều kháng sinh
Nguy cơ tác dụng phụ tăng lên nếu bạn dùng 2 liều gần nhau hơn so với khuyến cáo.
Việc vô tình uống thêm 1 liều kháng sinh không có khả năng gây ra bất kỳ tác hại nghiêm trọng nào cho bạn. Nhưng nó sẽ làm tăng khả năng bạn bị các tác dụng phụ, chẳng hạn như đau bụng, tiêu chảy, và cảm hoặc ốm.
Nếu bạn vô tình uống thêm 1 liều kháng sinh, lo lắng hoặc bạn gặp các tác dụng phụ nghiêm trọng, hãy đến bác sĩ hoặc đến bệnh viện, trung tâm y tế gần nhất càng sớm càng tốt.
6. Sử dụng kháng sinh nhiều có tốt không?
Tác dụng chính của kháng sinh là diệt khuẩn và nấm. Chính vì thế nếu lạm dụng sử dụng kháng sinh không đúng cách, liều lượng, tự ý dùng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh.
Kháng sinh không chỉ diệt các vi khuẩn có hại mà chúng còn có thể ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn có lợi trong khu vực niêm mạc, lợi, hầu, trong cơ quan tiêu hóa,…
Vì vậy, sử dụng kháng sinh quá nhiều lần, hoặc lạm dụng thuốc kháng sinh có thể gây nên hiện tượng loạn khuẩn, khiến cho các vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.
-
- Đối với người cao tuổi: sử dụng kháng sinh không đúng cách, sai nguyên tắc còn có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như sốc phản vệ, có thể tử vong nếu như không được cấp cứu kịp thời.
- Đối với trẻ nhỏ: cũng là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nếu dùng kháng sinh sai cách, khiến cho bé dễ bị hen suyễn, sức đề kháng yếu đi,… nên bé khó có thể phát triển khỏe mạnh.
<Kháng sinh nếu sử dụng sai cách, sẽ dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh>
7. Tác dụng phụ của kháng sinh
Như với bất kỳ loại thuốc nào, thuốc kháng sinh có thể gây ra tác dụng phụ. Hầu hết các loại thuốc kháng sinh không gây ra vấn đề gì nếu chúng được sử dụng đúng cách và rất hiếm khi xảy ra các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm:
-
- bị ốm
- cảm thấy mệt mỏi, hoa mắt
- đầy hơi và khó tiêu
- bệnh tiêu chảy
Một số người có thể có phản ứng dị ứng với thuốc kháng sinh, đặc biệt là penicillin và một loại gọi là cephalosporin. Trong một số rất hiếm trường hợp, điều này có thể dẫn đến phản ứng dị ứng nghiêm trọng (sốc phản vệ). Nếu người sử dụng kháng sinh bị sốc phản vệ, bạn cần phải đưa người bệnh đến bệnh viện, trung tâm y tế gần nhất cấp tốc để được hỗ trợ điều trị.
—
Nguồn tham khảo:
- NHS – Dịch vụ chăm sóc y tế quốc gia Anh Quốc: https://www.nhs.uk/conditions/antibiotics/
- Vinmec: https://www.vinmec.com/vi/thong-tin-duoc/su-dung-thuoc-toan/khang-sinh-la-gi/
- Bệnh viện Nhiệt Đới TW: http://benhnhietdoi.vn/tin-tuc/chi-tiet/khang-sinh-lich-su-ra-doi-tac-dung-va-phan-loai-khang-sinh/783
- BỆNH VIỆN ĐA KHOA MEDLATEC: https://medlatec.vn/tin-tuc/thuoc-khang-sinh–loi-ich-va-nguy-hai-khi-su-dung-s195-n19942
- Nhà thuốc Long Châu: https://nhathuoclongchau.com/bai-viet/khang-sinh-la-gi-ban-can-biet-gi-ve-thuoc-khang-sinh-46454.html
—
Phần đọc thêm:
8. Lịch sử ra đời của các thuốc kháng sinh
Chất kháng sinh (antibiotic) được phát hiện và ứng dụng sớm nhất là penicilin, vào những năm 40 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, thực tế, từ lâu con người đã biết dùng nấm mốc (mold, milew) trên đậu phụ để đắp chữa các vết thương nhỏ. Nhiều thế kỷ trước tại châu Âu, châu Mỹ, người ta đã biết cách dùng bánh mì, ngô hay giày da cũ đã lên mốc để điều trị các vết lở loét, lên mủ ở da. Theo quan điểm khoa học hiện nay thì thì mốc meo trên đậu phụ hay trên bánh mỳ thực tế có chứa chất kháng sinh, chỉ có điều người xưa chưa biết vi khuẩn, chân khuẩn là gì, lại càng không biết chất kháng sinh là gì.
Năm 1928, Flemming là nhà vi khuẩn học làm việc tại Bệnh viện Saint Mary ở London. Trong khi kiểm tra các đĩa nuôi cấy chứa vi khuẩn, ông phát hiện hiện tượng khác thường: nấm xuất hiện trên đĩa và phát triển thành các tảng nấm; xung quanh tảng nấm, những mảng vi khuẩn đã bị phá hủy. Ông kết luận rằng, nấm này đã tạo 1 chất diệt các vi khuẩn. Loại nấm mọc giống như dạng các bụi cây này sau được đặt tên khoa học là penicillium notatum, còn chất có khả năng tiêu diệt vi khuẩn được đặt là penicillin.
Ban đầu, penicillin được dùng chữa các vết thương bề mặt, nó chỉ mang lại thành công nhất định vì trong penicillin thô có rất ít các hoạt chất. Flemming đã cố gắng tách penicillin nguyên chất nhưng không thành công. 10 năm sau, ở Oxford, dưới sự chỉ đạo của Howara Walter Florey – nhà giải phẫu bệnh học người Australia và Ernst Boris Chain đã nghiên cứu với mục đích là chế tạo penicillin trên quy mô công nghiệp. Nhiều kỹ thuật như dùng tia cực tím, tia X và các chất hóa học tác động đến cấu trúc di truyền của nấm đều được sử dụng nhằm tạo ra chủng penicillin với sản lượng cao. Năm 1943, dự án chế tạo penicillin đứng thứ nhì trong danh sách các công trình ưu tiên sau dự án Mahattan chế tạo bom nguyên tử. Năm 1944, một ca chữa trị bằng penicillin tốn 200 đô-la, tuy nhiên, giá này nhanh chóng giảm xuống, rẻ hơn cả giá đóng gói sản phẩm. Năm 1945, Flemming, Chain và Florey được trao tặng giải thưởng Nobel y học.
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, cùng với bước tiến lớn trong khoa học kỹ thuật, nhiều loại thuốc kháng sinh đã lần lượt được tạo ra và phát triển mạnh mẽ. Chính penicilin đã hối thúc các nhà khoa học lao vào nghiên cứu, khám phá ra các loại thuốc kháng sinh mới.
Họ không sợ vất vả hay nguy hiểm để tìm chọn các loại khuẩn mới từ những nơi dơ bẩn nhất như trong đất mùn, nước cống rãnh hôi thối và đống rác sinh hoạt đã bốc mùi… bởi họ cho rằng càng ở những nơi như vậy thì mới càng có nhiều loại khuẩn ký sinh và việc thu thập hay chọn lựa mới mang lại nhiều hiệu quả.
Khi đó có thể được gọi là đã mở ra một “cơn sốt” tìm thuốc kháng sinh trong đống rác trên toàn thế giới, chủ yếu lúc bấy giờ là tại phương Tây.
Kết quả là chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều loại thuốc kháng sinh đã ra đời, đáng kể đó là streptomycin, neomycin, erythromycin… Trên kinh nghiệm bào chế penicillin trước đó nên nên việc phát hiện và sản xuất các loại kháng sinh mới khác gặp nhiều thuận lợi. Tuy vậy các nhà khoa học cũng đã bỏ ra khá nhiều công sức.
Có thể nói mỗi sản phẩm mới đều là sự nỗ lực hết mình của họ. Sự ra đời của streptomycin là một ví dụ, các nhà khoa học do Waksman lãnh đạo đã vùi đầu trong phòng thí nghiệm để chọn lọc từ 10.000 giống vi khuẩn. Cuối cùng họ mới tách ra được một giống lý tưởng nhất, đó chính là streptomycin mà chúng ta đang dùng rộng rãi ngày nay.
Từ thập niên 60 của thế kỷ trước tới nay, nhiều công trình nghiên cứu thuốc kháng sinh phát triển theo chiều sâu. Chloromycetin (pasaxin) là loại thuốc kháng sinh đầu tiên dùng phương pháp tổng hợp hóa học bào chế nên. Từ thập niên 80 của thế kỷ trước, các công trình nghiên cứu bào chế kháng sinh đã có nhiều bước tiến vượt bậc và đã đưa vào sử dụng loại thuốc kháng sinh đa năng mới bằng phương pháp bán tổng hợp là cephalosperin (cynnematin). Chỉ riêng mỗi loại này hiện cũng đã có hơn 30 chủng khác nhau. Hằng năm, số lượng các thuốc kháng sinh mới được đưa ra thị trường lên đến hàng chục và tính đến nay số loại kháng sinh có thể đến hàng ngàn. Ước tính đến nay, con người biết được khoảng 8000 loại kháng sinh, trong đó khoảng 100 loại được sử dụng trong y học.
—






*(Đối với phụ nữ có thai hoặc cho con bú, trẻ nhỏ dưới 2 tuổi: người sử dụng cần phải đến bác sĩ để được tư vấn, không dùng thuốc khi chưa có sự tư vấn và kê đơn của bác sĩ.)

